Monday, May 15, 2017

Em Tôi

         Năm em lên ba, bố tôi bỏ lại người vợ trẻ và hai đứa con thơ lên đường tập kết. 
Tôi hơn em sáu tuổi. Chín tuổi con nhà nghèo khôn lắm, tôi đủ khôn để thấy khuôn mặt mẹ buồn hiu hắt, những tiếng thở dài và những giọt nước mắt âm thầm của mẹ trong đêm. Chín tuổi, tôi đã biết mình là người nam độc nhất trong gia đình, đã biết ẵm bồng đút cơm cho em và vỗ về em mỗi khi em khóc. Chín tuổi, tôi đã biết tắm rửa, thay áo thay quần cho em, cõng em đi chơi và dỗ cho em ngủ. Mỗi ngày, trời sập tối mẹ mới gánh hàng về, ba mẹ con ngồi ăn cơm bên ngọn đèn dầu, tôi và em hỏi han, an ủi mẹ. Mẹ kể cho chúng tôi nghe chuyện chợ búa như đang nói chuyện với người lớn, tôi ngồi nghe, nhìn đôi vai gầy của mẹ, nhìn mái tóc và đôi bàn tay khô của mẹ, mà thấy thương mẹ vô cùng. 
Tôi phải bỏ học ở nhà hai năm để trông chừng em. Mẹ có một sạp bán rau cải ở chợ Cồn. Gọi là sạp chứ thực ra chỉ là một ô đất nhỏ, sáng mẹ ra đi thật sớm, lúc trời còn mờ sương, buổi trưa mẹ về nhà lo cho chúng tôi ăn, nằm nghỉ ít phút rồi trở dậy sửa soạn cho chuyến chợ chiều. Một tuần bảy ngày, mẹ đi đi về về trong nỗi cô đơn. 
Năm em vừa tròn năm tuổi thì mẹ cho em vào mẫu giáo, tôi cũng trở lại trường, đám bạn cũ của tôi nay đã hơn tôi hai lớp, ngồi xung quanh tôi bây giờ là những khuôn mặt lạ, kém tôi hai, ba tuổi. Tôi là học trò lớn nhất và học khá nên được làm trưởng lớp. Gần cuối năm học lớp nhì, tôi nói với mẹ lên xin thầy Hiệu Trưởng cho tôi được thi nhảy tiểu học. Thầy bằng lòng. Tôi cắm cúi học luyện thi và kết qủa là tôi đã đổ được bằng tiểu học năm đó. 
Vào lớp đệ thất trường Phan Châu Trinh, tôi tiếp tục học ngày, học đêm, năm đệ ngũ tôi thi nhảy một lần nữa lấy bằng Trung học. Đến niên học đệ tam thì tôi đã bắt kịp đám bạn cũ, tôi hân hoan nhập bầy chung với đám bạn ngày xưa. Đây là giai đoạn mà tôi cần tiền để mua sách học và may thêm quần áo, thời tiểu học và trung học đệ nhất cấp thì mặc sao cũng được, nhưng bây giờ đã lên đệ nhị cấp rồi, đã bắt đầu biết đỏ mặt khi nhìn những đứa con gái trường nữ, thỉnh thoảng đã biết theo bạn tập uống cafe, phì phà điếu thuốc. Tiền mẹ cho không đủ, tôi bắt đầu công việc kèm trẻ tư gia để kiếm thêm tiền. Học trò của tôi là mấy cô cậu đệ thất đệ lục, nghĩa là cũng chỉ thua tôi vài tuổi. 
Ba mẹ con tôi vẫn ngày ngày đi về căn nhà nhỏ, căn nhà vẫn không thay đổi một chút nào từ ngày bố bỏ mấy mẹ con để ra đi . 
Hết năm đệ tam, tôi nộp đơn thi Tú Tài phần nhất. Tôi đậu bình thứ. Một lần nữa, mọi người ngạc nhiên, nhưng tôi biết sức học của mình, tôi biết mẹ buôn bán tảo tần, tôi thấy những năm tháng gần đây mẹ trở bệnh hoài, mỗi sáng mẹ lục đục dậy thật sớm nấu cơm để dành cho anh em tôi, rồi lặng lẽ mang đôi quang gánh lên vai, những tối ngồi trầm ngâm bên ánh đèn dầu nhìn anh em tôi học bài và những đêm khuya mẹ trở mình húng hắng ho. Tôi thương mẹ và em đến ứa nước mắt, và càng thương mẹ thương em, tôi càng học như điên, như cuồng. Tôi ước gì Bộ Giáo dục cho tôi thi hai bằng tú tài cùng một lúc. Nhìn mái tóc mẹ đã lớm chớm sợi bạc, nhìn lưng mẹ mỗi ngày mỗi như còng xuống, nhìn hai vai gầy của mẹ mà lòng quặn đau, và cứ thế, tôi vùi đầu vào sách vở... 
Em đã bắt đầu tuổi lớn, đã bắt đầu tuổi mộng mơ con gái, đã bắt đầu bước vào "tuổi ngọc", nhưng tội nghiệp, biết nhà mình nghèo, biết mẹ mình buôn thúng bán bưng, biết anh mình vẫn chiều chiều đi kèm trẻ kiếm thêm tiền và cặm cụi học đốt giai đoạn cho chóng thành tài. Biết thế nên em ít khi nào xin mẹ, xin anh tiền may áo mới, hai chiếc áo dài trắng đủ cho em thay đổi. Em lớn lên thiếu tình của bố, nên tôi "quyền huynh thế phụ". Nhiều lúc nhìn mẹ, nhìn em, tôi vẫn không hiểu tại sao bố lại đành đoạn dứt áo ra đi. 
Tôi thi đỗ Tú Tài toàn phần năm 18 tuổi, và ra Huế học Đại học Văn khoa. Mẹ ở một mình với em ở Đà Nẵng. Mỗi cuối tuần, tôi theo xe đò về thăm mẹ và em, đến sáng thứ hai trở lại trường. Ở Huế, tôi tiếp tục công việc kèm trẻ tư gia. Với số tiền nhỏ nhoi kiếm được, tôi phụ mẹ nuôi em. 
Qua sinh nhật thứ 13 của em mấy tháng, một chiều mẹ bỏ buổi chợ, về nhà than nhức đầu, tưởng là cảm nhẹ, mẹ sai em cạo gió và nấu cho mẹ bát cháo hành. Khuya đó mẹ lên cơn sốt, lảm nhảm nói mê, sáng hôm sau em nghỉ học chở mẹ vào nhà thương và nhờ người nhắn tin ra cho tôi ở Huế. 
Lật đật trở vào Đà Nẵng bằng chuyến xe đò chót. Trời tối đã lâu, không kịp ăn uống, từ bến xe tôi đi thẳng đến bệnh viện. Trong căn phòng nhỏ, dưới ánh đèn vàng mờ đục, mẹ nằm thiêm thiếp trên giường bệnh, còn em đang ngồi ngủ gà ngủ gật cạnh giường. Đứng yên lặng nhìn mẹ xanh xao bất động, và khuôn mặt thơ dại của em, trong giấc ngủ hai khóe mắt vẫn còn long lanh giọt lệ, tôi nghe lòng mình quặn thắt. 
Đánh thức em dậy, em ngơ ngác dụi mắt vài giây. Nhận ra tôi, em nhào tới ôm chầm và òa lên khóc, em cho hay là từ lúc đưa mẹ vào đây, mẹ chỉ tỉnh lại một vài phút vào khoảng giữa trưa, sau đó mẹ hôn mê trở lại. Tôi an ủi em, rồi cùng em ra văn phòng bệnh viện. Cô y tá trực cho hay mẹ bị đứt một tĩnh mạch ở đầu. Tôi bàng hoàng như bị ai nện một nhát búa vào ngực. Cô y tá bùi ngùi nhìn em, đôi mắt xót xa. 
Tối đó, anh em tôi cùng ở lại với mẹ, em mệt mỏi, nên chỉ một thoáng là đã ngủ say. Trong giấc ngủ mệt nhọc, thỉnh thoảng em ú ớ mẹ ơi, mẹ ơi rồi nức lên mấy tiếng. Tôi nghe như dao cắt trong lòng. Suốt đêm không ngủ, tôi cứ ngồi nhìn mẹ nằm im lìm và bên chân mẹ em ngủ chập chờn. Tôi tự nhủ thầm với mình đừng khóc, đừng khóc .... nhưng sao nước mắt vẫn cứ trào ra, một tay ve vuốt bàn tay xanh xao của mẹ, một tay nắm lấy bàn tay nhỏ bé của em, tôi để mặc cho hai dòng nước mắt chảy nhạt nhòa trên má. 
Mẹ thở hơi cuối cùng lúc năm giờ sáng, mẹ không tỉnh lại để trăn trối với hai con một lời gì. Mẹ đi trong yên lặng. Tôi nắm bàn tay mẹ và thấy tay mẹ lạnh dần. Tôi đánh thức em dậy. Hai anh em hôn lên trán mẹ giã từ. Em vuốt mắt mẹ. Mắt mẹ nhắm hờ. Em ôm chặt hai tay mẹ, ủ vào lòng mình miệng kêu lên nho nhỏ: mẹ ơi, mẹ ơi... Em khóc lặng lẽ, áp mình vào ngực mẹ nước mắt em tuôn ràn rụa làm ướt đẫm cả vạt áo me bạc màu. Những tiếng kêu nghẹn ngào của em như những viên đạn bắn thẳng vào tim, tôi ngồi bất động nhìn mẹ, nhìn em, lòng đau như muối xát. Tội nghiệp mẹ tôi, tội nghiệp em tôi. Em mới mười ba tuổi ... 
Chôn mẹ xong, tôi bỏ học. Còn lòng dạ nào mà học nửa. Nhưng em thì phải trở lại trường. 
Bán đi căn nhà nhỏ xiêu vẹo và gom tóm tất cả vốn liếng của mẹ để lại, tôi đưa hết số tiền cho mẹ của Minh, một người bạn thân tôi . Minh có Hân, cô em gái cùng tuổi , cùng lớp với em. Tôi gửi em đến đó ở và đi học với Hân, cũng may, bố mẹ Minh coi anh em tôi như con. Tôi dặn dò em đủ điều. Số tiền tôi gởi cho mẹ Minh đủ để trả tiền ăn ở của em trong hai ba năm. Tôi còn đưa thêm cho em một ít để em mua sách vở, may áo quần, tiêu vặt. Tôi ôm em và hứa với lòng, hứa với vong hồn mẹ là sẽ lo lắng, sẽ bảo bọc em cho đến trọn đời. 
Tôi vào trường Võ Bị Đà Lạt năm 20 tuổi, lương sinh viên sĩ quan ít ỏi, tôi tiết kiệm không dám xài nhiều, để dành gởi về cho em mỗi tháng. Tôi dặn em viết thư mỗi tuần kể cho tôi nghe chuyện học hành. Tôi bắt em hứa là không bao giờ dấu tôi một điều gì dù nhỏ bé. Em ngoan ngoãn vâng lời. Mỗi năm tôi được về phép một lần, hai anh em quấn quýt không rời. Tôi đưa em đi thăm mẹ. Chúng tôi lặng yên cầm tay nhau quỳ bên mộ mẹ, nước mắt lưng tròng. 
Em lớn lên và ngày càng giống mẹ. Cũng khuôn mặt và cái nhìn nhẫn nhục, cũng đôi mắt xa xăm buồn hiu hắt. Bình thường em rất ít nói, có lẽ không cha, mồ côi mẹ quá sớm và anh lại ở xa đã làm em rụt rè. Cũng may, bên cạnh em vẫn còn có Hân. Lễ mãn khóa của tôi, em và Hân cùng lên tham dự, lúc này, em đã thi đổ vào trường Sư Phạm Qui Nhơn, hai năm nửa em sẽ trở thành cô giáo, tôi hãnh diện giới thiệu em và Hân với các bạn mình. Nhìn dáng em thẹn thùng e ấp, tôi thấy lòng mình rạt rào thương em. Tôi thầm gọi mẹ, mẹ ơi, hai con của mẹ đã trưởng thành và đã nên người. 
Ra trường, tôi chọn binh chủng nhảy dù, có lẽ cũng chỉ vì tôi thích màu mũ đỏ. Em vào học và ở nội trú trong trường sư phạm. Tôi thấy mình yên tâm hơn. Mỗi tháng, tôi vẫn gửi về cho em một nửa tiền lương lính của mình để trả tiền phòng, tiền ăn. Tôi biết con gái cần nhiều thứ hơn con trai, như áo quần, son phấn... Em vẫn viết thư cho tôi mỗi tuần như em đã làm trong mấy năm qua. Em kể chuyện học hành, chuyện bạn bè, em lo sợ là tôi đi tác chiến nhỡ có ngày bố con gặp nhau ở chiến trường, làm sao nhận ra nhau, em không nói thêm, nhưng tôi cũng hiểu, tên đạn vô tình, nếu nhỡ. 
Hai năm em học Sư Phạm trôi qua thật nhanh. Em bây giờ đã là một cô giáo trẻ. Em được đổi về dạy tại một trường tiểu học gần thị xã Phan Rang. Em thuê nhà chung với hai cô giáo khác. Mỗi ngày ba cô giáo ngồi xe lam đi đến lớp, chiều về cả ba cùng quây quần nấu nướng. Em viết thư cho tôi và khoe có quen với Tuấn, một Sĩ quan Hải quân đồn trú ở Phan rang. Em khen Tuấn hiền lành, ít nói. Em kể thêm là Tuấn chỉ còn có mỗi một mẹ già. 
Chiến tranh ngày thêm khốc liệt, đơn vị tôi hành quân liên miên, có khi cả năm chúng tôi mới được về hậu cứ một lần. Tôi bị thương hai lần trong cùng một năm. Tôi dấu em, không cho em biết sợ em lo lắng. Trong những tuần lễ nằm bệnh viện và ở hậu cứ dưỡng thương, tôi bắt đầu viết bài đăng trên các báo và tạp chí. Tôi kể lại những trận đụng độ kinh hoàng giữa đơn vị tôi và giặc Cộng, tôi kể lại những "kỳ tích " của bạn tôi, của Mễ, của Lô .... 
Sau một lần bị thương nhẹ ở tay, tôi lấy mấy ngày phép ra Phan Rang thăm em. Em mừng rỡ ôm lấy anh, nhưng khi thấy cánh tay băng bột em xót xa bật khóc. Tôi an ủi em là biết đâu sau chuyến bị thương này tôi sẽ được về làm việc hậu cứ. Ngày hôm sau, nghe tin, Tuấn đến thăm. Thoạt nhìn, tôi đã có cảm tình với Tuấn, đúng như em nói, Tuấn trông rất hiền lành. Trong suốt tuần lễ ở Phan rang, em vẫn phải đi dạy, nhưng may là có Tuấn, mỗi ngày Tuấn tới chở tôi đi ăn sáng, trưa Tuấn và tôi lang thang ra chợ bạ gì ăn đó đợi giờ ba cô giáo đi dạy học về. Buổi tối, em đi ngủ sớm, Tuấn ngồi lại nói chuyện với tôi cho tới khuya. Bên ly cafe, tôi kể cho Tuấn nghe chuyện của mình. Những hình ảnh yêu dấu, xót xa như một cuộn phim củ quay chầm chậm. Tôi rưng rưng kể lại ngày mẹ mất. Tuấn lấy tay chùi mắt, trong đêm tối , tôi thấy mắt Tuấn long lanh ... 
Bảy ngày phép cũng trôi nhanh. Tôi trở về Saigòn, lòng cảm thấy vui và nhẹ nhàng vì đã có dịp gặp Tuấn. Tôi tin Tuấn sẽ không làm khổ em. Ba tuần sau, tôi nhận được thư Tuấn, trong thư Tuấn kể về gia đình (mặc dù tôi đã nghe em kể trong các lá thư). Tuấn muốn tiến tới với em. Tuấn xin phép được đưa mẹ Tuấn đến gặp tôi. Tuấn hứa là sẽ săn sóc và thương yêu em. Đọc thư Tuấn tôi ứa nước mắt vì mừng. Mừng cho em may mắn không gặp những trắc trở trên đường tình ái, mừng cho em gặp được một người chồng hiền hậu. Tôi viết thư cho em và Tuấn, bảo hai em lo thế nào cho tiện, chỉ cố làm sao cho giản đơn vì cả hai đứa cùng nghèo. 
Bốn tháng sau, Tuấn và em làm đám cưới, nhà gái ngoài tôi còn có thêm mấy thằng bạn trong đơn vị, ông hiệu trưởng, thầy cô giáo và rất đông học trò. Nhà trai ngoài mẹ Tuấn, mấy gia đình anh chị họ còn thêm một số bạn bè Hải quân cùng đơn vị. Nhìn em xúng xính trong bộ đồ cưới, tươi cười đứng bên cạnh Tuấn, tôi gọi thầm mẹ ơi, mẹ ơi, về đây dự đám cưới của em. 
Tôi theo đơn vị lội thêm hai năm nửa ở vùng giới tuyến, thì "tai nạn" xảy ra. Trong một lúc nóng giận vì thấy ông xếp của mình sao ngu và bẩn quá, tôi không giữ được lời và đã xúc phạm đến ông, kết qủa là tôi bị đưa ra hội đồng kỷ luật và tống ra khỏi binh chủng nhảy dù. 
Sau một thời gian ba chìm bảy nổi, tôi đổi về cục Tâm lý Chiến, thời gian này tôi đã khá nổi tiếng, những bút ký chiến trường về Tết Mậu Thân, Bình Long. An Lộc ... đã làm vinh danh binh chủng củ của tôi. Tôi được giải thưởng văn học với bút ký "Mùa Hè Đỏ Lửa". Tiền thưởng và tiền bán sách tôi gửi hết cho em. Tuấn và em dùng tiền này mua được một căn nhà nhỏ ở ngoại ô Phan rang, gần trường em dạy. 
Mới ngày nào đó còn thẹn thùng nấp bên vai Tuấn mà bây giờ em đã mấy con. Mỗi dịp rảnh rỗi, tôi lại ra Phan rang ở chơi với em, với cháu. Tôi ôm cháu, hôn vào hai má phúng phính, hít vào phổi mùi thơm của trẻ thơ mà thấy lòng mình dịu lại, những cay đắng, cực nhọc của đời theo tiếng cười lanh lảnh giòn tan của cháu mà bay xa, bay xa. Tôi nhìn hai vợ chồng em, nhìn bầy cháu nhỏ lẫm chẫm quây quần bên chân mẹ mà lòng vừa vui mừng vừa hãnh diện. Tôi ao ước mẹ tôi nhìn thấy được cảnh này . 
Biến cố tháng 4 /75 tới như một định mệnh oan nghiệt, cả Tuấn và tôi đều phải ra trình diện cải tạo. Em ở lại một mình với một bầy con nhỏ, đứa lớn nhất chưa đầy sáu tuổi và đứa nhỏ nhất còn nằm trong bụng mẹ. Trong trại, tôi cứ đứt ruột nghĩ về em và bầy cháu nhỏ. Mẹ của Tuấn đã quá già, làm sao lo phụ với em đây. Rồi em còn phải lo lắng về số phận chồng, số phận anh. Tôi quay quắt như ngồi trên đống lửa, tôi nghĩ đến lời hứa với vong hồn mẹ hôm nào mà lòng đau như xé, con đã thất hứa với mẹ, mẹ ơi, con đang ở đây tù tội thì làm sao lo được cho em ... 
Năm 76 tôi bị đưa ra Bắc. Tôi mất liên lạc với em và Tuấn từ tháng 5/75. Làm sao em biết tôi ở đâu mà thư từ thăm gửi. Không biết em có biết Tuấn ở đâu không, trại tù mọc lên như nấm từ Nam ra Bắc. Hồi còn ở trong Nam, từ Trảng lớn, qua Suối máu, đâu đâu tôi cũng cố dò hỏi tin Tuấn nhưng vô hiệu. Tù nhân đông quá ... 
Trại cải tạo Sơn La, sau đợt cho viết thư về gia đình đầu tiên, ba tháng sau tôi nhận được thư em. Thư em đến tay tôi vào giữa năm 77. Hơn 2 năm 1 tháng tôi mới nhìn lại nét chữ của em. Run run bóc thư, mắt tôi cay nồng, nhạt nhòa. Em cho hay là Tuấn đang cải tạo ở Long Thành, Tuấn có thư về và cho biết vẫn bình an, mẹ Tuấn dạo này yếu lắm vì cụ đã quá già, em vẫn đi dạy, hai cháu nhỏ ở nhà với bà nội, hai cháu lớn theo mẹ vào trường, em cho hay đứa con gái út em đặt tên Tâm, Trần thị Minh Tâm, cháu sinh ngày 12 tháng 9 năm 75, gần 4 tháng sau ngày bố cháu và bác cháu vào tù. 
Gần cuối thư, em báo tin là bố còn sống và hồi đầu năm 76 có tìm đến gặp em, làm sao bố tìm ra địa chỉ thì em không biết, nhưng hôm ấy bố đến, bố tự giới thiệu tên mình. Em ngỡ ngàng, ngày bố ra đi em mới tròn ba tuổi, hơn hai mươi năm sau gặp lại làm sao em nhận được, bố xoa đầu đám cháu ngoại đang trố mắt nhìn người đàn ông lạ, bố hỏi về anh, về Tuấn, khi em hỏi lại bố là làm sao để biết anh và Tuấn đang bị giam giữ ở trại cải tạo nào, bố lắc đầu không nói gì. Bố cho hay là bố đang có gia đình ở Bắc, ngoài ấy bố có thêm hai trai và hai gái. Đứa trai lớn nhất thua em bốn tuổi. 
Bố mang vào cho em hai mươi ký gạo và một chục cam. Bố ở chơi một ngày rồi trở về Hà nội. Lúc bố về em có tặng bố cái radio-cassette của anh cho ngày nào. Bố thích lắm, bố hứa sẽ đến thăm anh trong trại tù. Từ hồi trở ra Bắc dến giờ bố chưa liên lạc lại với em, và em cũng không có địa chỉ của bố ở ngoài ấy. 
Tôi đọc thư lòng thấy phân vân, tôi cũng như em, không hình dung ra nổi bố tôi hình dáng mặt mũi ra sao, hai mươi mấy năm, tôi tưởng bố tôi đã chết. 
Tháng 12 năm 77, tại trại cải tạo Sơn La, bố đến thăm tôi. 
Đứng trong văn phòng viên sĩ quan trưởng trại một người đàn ông trung niên, tóc muối tiêu và gương mặt xương. Bộ áo quần dân sự khá thẳng thớm, và sự lễ phép của tên đại úy trưởng trại tiết lộ về địa vị không nhỏ của người này. Thấy tôi vào, viên trưởng trại quay qua nói nhỏ một câu gì đó rồi bước ra ngoài. Tôi im lặng đứng nhìn người đàn ông xa lạ. 
Bố đến bắt tay tôi, tự xưng tên mình, bố gọi tôi bằng anh, bố kể là đã gặp em ở Phan rang, bố hỏi tôi học tập thế nào, bố không hề nhắc đến mẹ, có lẽ ông đã biết về cái chết của mẹ. Bố nói là có đọc văn tôi. Tôi ngồi yên nghe bố nói, sau cùng, bố đứng dậy, móc trong xách ra một gói nhỏ bảo đó là đường và thuốc lá, trao cho tôi, khuyên tôi cố gắng học tập tốt để sớm được khoan hồng. Tôi nhìn vào mắt bố, lòng thấy dửng dưng. Tôi bắt tay bố rồi về lại lán mình. 
Đó, cuộc hội ngộ của bố con tôi sau hơn hai mươi năm là thế đấy. Chắc cuộc tái ngộ giữa bố với em cũng tẻ nhạt như thế. Có cái gì đó ngăn cách, có cái gì đó phân chia, có cái gì đó tôi không hiểu và không diễn tả được. Bây giờ tôi hiểu vì sao cái tin quan trọng đến thế mà em lại chỉ đề cập một cách ngắn ngủi ở cuối thư. 
Lần đó là lần đầu và cũng là lần duy nhất tôi gặp bố trong suốt 13 năm lang thang trong các trại tù biệt giam miền Bắc. 
Tháng 12/78, chuyển trại lên Yên Bái, tôi nhận thêm được hai lá thư của em, trong bức thư gần nhất, em viết vào tháng 8/78. Em cho hay tình trạng rất khó khăn, phụ cấp đi dạy không đủ nuôi một mẹ già và bốn con thơ, em đã bán lần mòn hết những đồ trang sức và luôn cả những đồ vật trong nhà. Em vẫn chưa đi thăm nuôi Tuấn được một lần nào. Không thể để bốn cháu nhỏ ở nhà cho bà nội vì cụ bây giờ đã quá yếu, mỗi buổi ăn, Uyên, cháu lớn phải đút cho bà. Ngoài ra, mỗi tối, từ lúc chạng vạng em và Hoàng, hai mẹ con phải ra đầu ngõ, ngồi bán bắp nướng đến khuya để kiếm thêm tiền đong gạo. Em than là dạo này mất ngủ, sức khỏe yếu lắm, em sợ nhỡ có mệnh hệ nào ... 
Tôi thẫn thờ cả buổi vì bức thư em, ngày xưa tôi chỉ lo cho có mỗi mình em, còn bây giờ em phải lo cho bốn đứa con thơ và một mẹ già, kể luôn người chồng và ông anh đang tù tội là bảy, bảy cây thập giá đời đang đè nặng lên đôi vai gầy guộc, nhỏ bé của em. Tôi viết thư về an ủi, khuyên em cố gắng, tôi vỗ về em là có thể Tuấn sẽ được tha về sớm với em, với cháu, vì Tuấn đi hải quân và lon còn thấp, không có tội với cách mạng nhiều. Rồi tôi viết thêm cho em hai ba lá thư nửa mà vẫn không thấy hồi âm. Lòng tôi cồn cào, nóng như lửa đốt, những ngày dài tù tội, tôi không nghĩ đến cái đói, cái khổ của mình mà chỉ nghĩ đến em và mấy cháu, không biết giờ này, em và bốn cháu thơ dại đang có gì ăn ? 
Tháng 6/79, một sáng trên đường lên rừng đốn nứa, tôi nghe loáng thoáng câu chuyện giữa các bạn tù. Họ nghe từ các bà vợ đi thăm nuôi kể lại, rằng ở Phan Rang có một chị có chồng đang đi cải tạo, chị chết đi, để lại bốn con thơ, đứa bé nhất mới lên ba, còn đứa lớn nhất chưa đầy chín tuổi . Tội nghiệp, họ hàng nội ngoại không có một ai. Tôi bỗng dưng thấy lạnh toát cả sống lưng, lại gần hỏi thêm thì người bạn tù cho hay là nghe nói chị ấy làm nghề cô giáo, có chồng sĩ quan hải quân đang đi tù cải tạo ở đâu đó trong Nam. Người chồng, trung úy hải quân trước cũng đóng ở Phan Rang. Trần Nguyên Tuấn, hải quân trung úy Trần nguyên Tuấn. 
Tôi thấy đất trời đảo lộn, tôi thấy mặt trời nổ tung trong óc, tôi hụt hơi, miệng há hốc đứng như trời trồng giữa núi rừng Yên Bái, bên cạnh tôi tiếng người nói lao xao. Tôi không nghe gì hết, tai tôi lùng bùng, mắt tôi mờ đi, tôi đang nhìn thấy xác em nằm co quắp trên manh chiếu, bốn đứa cháu của tôi, cháu Minh Tâm chưa đầy ba tuổi đang lấy tay lay lay xác mẹ, cháu lớn Thu Uyên chưa đủ chín tuổi đang ôm chân mẹ khóc lóc ủ ê, hai đứa kia, Hoàng và Châu ngơ ngác đứng nhìn. Trời tháng 6 mùa hè Yên bái mà sao tôi thấy thân mình lạnh buốt. Tôi tê dại, tôi hóa đá, tôi không còn cảm xúc, tôi muốn hét lên cho tan vỡ cả vũ trụ này. Trong lung linh màu nắng vàng buổi trưa Yên Bái, tôi thấy bóng em nhập nhòa, chập chờn. Em của tôi, đứa em côi cút của tôi ... 
Mũi súng AK thúc vào cạnh sườn, người vệ binh chắc cũng ngạc nhiên không hiểu sao bỗng dưng tôi đứng như trời trồng giữa lộ. Anh quắc mắt nhìn tôi dò hỏi, tôi không nói gì, im lặng nhập vào dòng tù. Nước mắt chảy dài trên hai má hóp, tôi bước đi như kẻ mộng du ...
Phan Nhật Nam

Saturday, May 13, 2017

Mẹ Ơi Con Nhớ Mẹ

 CÁM ƠN MỘT NỀN GIÁO DỤC TỐT ĐẸP
(Thư của Cô Bùi Mỹ Dương)
          Cám ơn các em luôn nhớ đến các thầy cô giáo của một thời thật xa xưa.
          Một thời có nền giáo dục tốt đẹp với đường lối: "Nhân Bản, Dân Tộc, và Khai Phóng", luôn đào tạo con người có "Nghĩa Khí, Đạo Đức, và Yêu Quê Hương". Xin cám ơn nền giáo dục tốt đẹp của Chính Thể Việt Nam Cộng Hòa.
         Chúc các em và gia đình bình an và hạnh phúc trong ngày Hiền Mẫu.
Bùi Mỹ Dương
 
Phảng phất qua làn sương mỏng lan
Xa xăm từ chốn gió mây ngàn
Đêm nay mẹ lại về theo mộng    
Mắt lặng lẽ nhìn sợi khói tan
 
Mẹ mang vương vấn nét u buồn
Có phải muôn đời vẫn giấu chôn
Bao nhiêu tâm sự chưa vơi tỏa
Của cả một thời ngấn lệ tuôn ?
 
Hai mấy năm rồi trong trí con
Mẹ luôn đầy ắp tựa như còn
Vòng tay thuở ấy nồng hơi ấm
Giọng nói êm đềm, mát nụ hôn
 
Con muốn gọi hoài tiếng Mẹ ơi!
Mà sao tiếng nấc nghẹn không lời
Giấc mơ ngắn ngủi âm thầm lặn
Đêm vắng chỉ còn cơn gió lơi…  
NG. Thu Tâm
 
Mẹ tôi, cũng đơn giản như hàng vạn bà mẹ Việt Nam khác của mọi người, chịu thương chịu khó, hiền từ và thương yêu chăm sóc gia đình chẳng nề gian khổ. Riêng đối với tôi, ngoài người cha đáng kính ra mẹ luôn ngời sáng hơn tất cả. Cha tôi là lính trận triền miên ngoài chiến trường, mẹ mang nét u buồn trên khuôn mặt nhẫn nhục đảm nhận hai vai trò cùng lo sinh kế cho cả gia đình 8 miệng ăn vì lương của cha rất hạn hẹp. Thỉnh thoảng thời gian ngắn ngủi cha về phép, ánh mắt mẹ lại long lanh sáng và thấp thoáng môi cười.
Kể từ khi tôi vừa có trí khôn thì anh chị em tôi đã chịu cảnh mồ côi cha. Ông tử trận để lại cho mẹ 7 đứa con còn còn tuổi học trò, mẹ bắt đầu trở thành người đàn bà bản lãnh cứng cỏi trước xã hội, uy nghiêm với đám con tuổi ăn tuổi lớn vô tư và nghịch ngợm. Nụ cười xem như lẩn trốn mất tăm nhường cho dáng vẻ tất tả của người phụ nữ mới hơn bốn mươi còn xinh đẹp khiến lắm người thương cảm. Mẹ ngược xuôi đầu tắt mặt tối, làm cả việc nặng nhọc dành cho đàn ông, bán buôn, chăn nuôi, thậm chí trồng trọt lấy hoa lợi trong khu đất vườn sau nhà. Đêm về bên đàn con nhỏ ngồi học bài, mẹ cặm cụi may vá kiếm thêm thu nhập. Lúc ấy, tôi dại khờ thắc mắc sao mẹ làm chi nhiều việc đến thế? Bàn tay mẹ thô ráp sần sùi nứt nẻ nhưng nét trang nhã còn nguyên trên những ngón dài thon thả. Dù lặn lội suốt ngày ngoài trời, mưa dầm nắng gắt vẫn phải chào thua làn da trắng vốn có của mẹ. Trong đàn con lau nhau, tôi vốn dĩ là đứa èo uột nhất, quanh năm đau ốm sụt sùi… Làm sao tôi quên những khi bị cảm sốt  được mẹ chăm sóc, mẹ thường lo lắng đi hái đủ thứ lá nấu nước xông cho tôi, vậy mà chưa bao giờ tôi chịu ngồi yên cho mẹ trùm kín chiếc khăn với nồi nước nóng sôi bốc mùi xả hay bạc hà mù mịt hơi. Tôi rất dễ bị ngộp thở, vừa sặc sụa vùng chạy vừa la inh ỏi. Mẹ đành cho uống thuốc rồi dùng dầu khuynh diệp thoa lên hai bên thái dương tôi, đồng thời lấy ngón tay chà xát mạnh, mẹ bảo cho dầu thấm vào thịt sẽ mau khỏi hơn. Rất nhiều lần cho tôi cảm giác da tay mẹ rất nhám qua sự bỏng rát không phải vì dầu nóng. Khi phát hiện ra điều này, tôi thực sự buồn và chú ý tới mẹ hơn từ đó. Tay tôi thì nhỏ nên lọt thỏm giữa lòng bàn tay mẹ, tôi thường viện cớ so sánh để khen tay mẹ đẹp, tôi nắn bóp xoa xoa trên những vết chai sần nổi cộm đó lòng nghẹn ngào thầm giấu niềm cảm xúc thương yêu. Lúc đó đâu có lotion như bây giờ mà tặng cho mẹ thoa, cũng không có cả găng tay để bảo vệ bàn tay đẹp của mẹ. Tôi ôm mẹ muốn nói lời cảm ơn, giọt nước ẩn trong khóe mắt tôi chắc khó thấy được nên mẹ mắng và hất tay tôi ra. Tôi hiểu mẹ luôn bận rộn cả trăm việc, làm gì có thì giờ ngồi yên một chỗ mà chú ý tới cảm xúc của tôi ...   
Từ thuở bé tôi rất nhút nhát, lại thường ngoan ngoãn nghe lời mẹ nhất nhà, nào ai nhận ra trong thể xác yếu đuối bé nhỏ đó của tôi lại ẩn chứa một sự kiên cường trước mọi hoàn cảnh. Dù chưa trưởng thành và là đứa con thứ ba của gia đình, tôi đã sớm nhận thức được mình cần phải làm gì. Ngoài giờ đi học ra tôi không đi chơi như những bạn cùng tuổi, không đua đòi mua sắm và đòi hỏi điều gì cho cá nhân. Học hoặc làm bài xong, thời gian rảnh tôi thường theo mẹ đan lát hay may vá áo quần cho cả nhà, chăm sóc mấy đứa em. Mẹ đã truyền lại cho tôi mọi căn bản của nữ công từ dễ đến khó, tôi cố gắng học hỏi nhưng sự khéo léo của mẹ thì tôi khó lòng theo kịp nổi, tuy vậy bấy nhiêu đó cũng đã giúp tôi rất nhiều sau này cho cuộc sống.
 Hai thằng em trai út quấn quýt tôi hơn cả, nhất là một thời gian vì hoàn cảnh mấy chị em phải đi học xa mẹ mấy năm trời. Chúng luôn theo vòi vĩnh đủ chuyện, kể cả khi ngủ cũng dành nhau ôm chặt cứng hai bên cánh tay tôi đến tê cứng thì lại trở đầu ôm lấy hai chân tôi. Thương quá những đứa em côi cút tội nghiệp của tôi, nhìn các em vô tư sống với cảnh thiếu thốn, tôi xót xa vô hạn. May sao những việc làm bất ngờ và bất đắc dĩ của tôi cũng giúp được ít nhiều cho cuộc sống gia đình, các em có thêm chút thịt thà, cá mắm trên mâm cơm hàng ngày. Nhìn các em hớn hở mừng reo có tấm áo manh quần mới mỗi lần Tết đến hay khi nhập học, lòng tôi rất vui. Động lực ấy khiến tôi yên tâm giấu diếm gia đình để đi làm thêm,  mẹ và anh tôi đã buồn lắm khi biết được. Sau một lần đau nặng bị gián đoạn việc học gần cả năm, tôi thực thụ bước vào đời sống một nhân viên của ngôi trường Thiếu Sinh Quân.   
Tôi theo thói quen của gia đình, Mẹ thường nấu nướng ở nhà hay mua về cho con cái ăn uống thoải mái chứ không cho ra ngoài. Lương lãnh được bao nhiêu đều giao hết cho mẹ tiêu dùng, quần áo hoặc giày dép thì mẹ sắm cho thứ gì tôi dùng thứ đó, sắc tay tôi có mỗi tiền xe đi và về hai buổi mẹ đưa cho mỗi buổi sáng. Tôi xem đó là điều tự nhiên không hề thắc mắc hay đòi hỏi so sánh với ai. Buổi sáng tháng Sáu hôm ấy trời mưa tầm tã, tôi thường dậy sớm đi bộ cách nhà độ nửa cây số ra bến xe lam đi đến chỗ làm, chiếc xe chở tôi bắt đầu depart máy thì chợt thoáng nghe giọng mẹ hốt hoảng gọi với theo:
 -“ Con quên mang thức ăn trưa này”
 Nhìn thấy dáng mẹ từ đàng xa đang hấp tấp dẫm bừa trên những vũng nước mưa bước tới, áo quần ướt đẫm, tóc tai tơi tả dính bết vào mặt làm tôi rưng rưng nước mắt tự trách mình lơ đễnh bắt tội mẹ, đưa tay nhận gói bánh và chai nước tôi nghẹn ngào nói nhỏ:
“ Sao mẹ không mặc áo mưa hay che dù, bị ướt hết về sẽ bị cảm thì sao?”  
Mẹ cười hiền từ:
  - “ Có sao đâu con, nước mưa mát lắm. Mẹ sợ đưa trễ cho con, trưa nay lấy gì ăn? Thôi mẹ về đây”  
Tiếng mấy người trên xe nhao nhao khen tôi được mẹ cưng chiều, riêng tôi ngồi thẫn thờ nhìn theo tấm lưng mỏng manh của mẹ trong chiếc áo ướt dán sát vào người khi mẹ quay gót trở về… Bóng mẹ khuất dần khi xe lăn bánh, tôi cúi nhìn gói thức ăn trưa đơn giản có mỗi khúc bánh mì nhỏ kẹp trứng và chai nước bé tí mà mẹ phải mất công lặn lội quên cả mưa gió đem đến cho tôi. Nước mắt chực trào ra, tình thương mẹ bỗng dạt dào dâng lên đến nghẹn tức buồng tim. Hình ảnh ấy chưa bao giờ ra khỏi tâm trí tôi được cho đến bây giờ. Còn biết bao điều hy sinh của mẹ dành cho đến nỗi tôi không thể nhớ hết, cũng may thời gian mẹ đau ốm và trước khi mẹ từ giã cõi đời, tôi đã được ở bên cạnh săn sóc chăm lo. Mẹ ra đi thiếu sự thanh thản, tôi biết chứ! Làm sao mẹ vui được khi của cải mẹ gầy dựng cực khổ mấy chục năm trời đã không giữ được cho con cháu theo ý mẹ mong ước. Đất nước đổi thay và hoàn cảnh eo hẹp kèm theo nỗi uất ức đã giết dần giết mòn mẹ của tôi. Ngày tôi có đủ điều kiện có thể lo cuộc sống khá hơn cho mẹ thì đã quá muộn màng. Mẹ đã bỏ chúng tôi ra đi từ lâu…
Còn một tháng nữa là đến ngày giỗ lần thứ 28 của mẹ, mùa Xuân cũng đã qua rồi mùa xuân sẽ trở lại, chỉ có mùa Xuân của riêng tôi đã mất đi ý nghĩa từ khi người mẹ thân kính của tôi lìa đời. Ngày xưa tôi thật vô tình nên không biết mẹ yêu màu gì, dù là đứa con mồ côi mẹ, tôi vẫn luôn thích chưng hoa hồng đỏ trên trang thờ. Di ảnh mẹ đẹp lộng lẫy bên sắc hoa với ánh mắt hiền từ đang nhìn tôi trìu mến. Có phải mẹ vẫn luôn hiện diện bên đời con?
“Mẹ ơi! Con nhớ mẹ”.
Nhã Giang Thu Tâm
May 2017

Friday, May 12, 2017

Đóa hồng trắng cho ngày Mother Day - Thúy Sương PBC72

Ngày Mother Day năm nay tôi cài hoa hồng trắng. Má tôi mất vào tháng mười một năm ngoái. Trước ngày má mất khoảng 2 tuần tôi đã có vé về Việt nam. Con trai tôi cũng đã dự định tháng 12 về thăm bà ngoại. Buổi tối trước ngày má tôi mất, đang ngủ nằm mơ thấy má tôi ở nhà sinh hoạt bình thường ở Phan thiết, sau đó thì tự nhiên trong mơ thấy đèn tắt tối thui. Tôi có nhớ ai đó nói ủa bị cúp điện nữa. Giựt mình tỉnh giấc, tôi nghĩ chắc có gì, thôi để gọi về nhà hỏi thăm.  
Sáng hôm sau lái xe đi làm nhận điện thoại của đứa em gái báo tin má tôi vừa mới mất. Vào sở làm boss của tôi nghe được tin đã đến ngay phòng tôi làm thấy tôi khóc ông thổ nhẹ vào vai tôi im lặng nhưng cũng đã tỏ bày những san sẽ cần thiết cho sự mất mác của tôi và hỏi tôi có cần gì thì cứ nói. Tôi booked lại vé để về Việt nam sớm hơn nhưng cũng đã là đứa con về sau cùng nhất của má tôi. Đến Phi trường Tân Sơn Nhất, đã thấy xe cùng anh tôi và em gái chờ sẳn để về Phan thiết. Vào nhà tôi chỉ còn thấy mặt má nằm đó qua mặt kính, mới nhìn xong thì nắp quan tài đóng lại. Tôi vĩnh viễn mất má từ đây.
Lần đầu tiên sau 1975, chín anh em đã gặp mặt đông đủ ngày má tôi mất. Cho dù buồn nhưng mấy anh em ai cũng dặn lòng đừng khóc để má tôi đi thanh thản.. Những ngày đám tang của má tôi, có nhiều người đến viếng và phúng điếu vưà là bà con nội ngoại, láng giềng, bạn của gia đình các anh chị em tôi. Tôi thấy có nhiều thầy và các sư cô từ các chùa đến tụng niệm. Các anh em ai mắt cũng buồn dàu dàu nhưng không khóc cho đến lúc lễ cúng dâng cơm cho má lần sau cùng trước khi tiễn má tôi đi vĩnh viễn thì đang dâng chén cơm cho má nước mắt tự nhiên chảy ra không dằn lại được.  Đám tang hôm đó có dừng ngang nhà ngoại để má tôi tiễn biệt lần cuối, vì cửa không mở được để vào đốt nhang, nên một người của nhà quàn cầm 2 cây gõ 3 tiếng cho má tôi chào vĩnh biệt. Vậy đó mà má tôi đi.  
Chị tôi lần lượt kể những chi tiết trong những ngày cuối đời của má tôi, trong đó nghe chị tôi kể lúc đứa em trai út tôi về gặp má tôi đã nói má ơi con về nè má. Dù không có tôi lúc đó nhưng tôi cũng hình dung được lúc đó tình cảm của em tôi đối với má ra sao. Cả 9 anh em tôi ai cũng đều thương má. Anh chị em có xích mích gì với nhau nghĩ đến má tôi thì việc lớn cũng thành nhỏ. Má tôi hay nói gà cùng một mẹ mà ai lại đi đá nhau bao giờ. Nên mấy anh chị em có chuyện gì cũng không để má tôi biết sợ má tôi buồn.
Má tôi khổ cả đời từ lúc nhỏ bà ngoại mất sớm, má tôi là chị hai của mười mấy đứa em. Bên nội bên ngoại đều giàu có những má tôi số khổ. Ba tôi là công tử nhà giàu nhưng không biết giữ tiền và tính tình lại hào phóng nên cuối đời thì sống khổ. Tuy vậy lúc trẻ cũng đã giúp đỡ nhiều người lúc sa cơ thất thế nên có rất nhiều em nuôi, sau này các chú đó đều xem gia đình tôi như người thân. Có lẽ nhờ vậy nên mấy anh chị em tôi sau này chắc cũng hưởng phước được từ ba má tôi. Ngày xưa lúc học ở Sài Gòn, mỗi khi tết về thăm nhà, đi xích lô từ bến xe về nhà mấy ông xích lô ai cũng nói khi xưa bà nội con giàu lắm nhưng ba và cô con chắc là xài hết.. Má tôi không được học nhiều nhưng lúc nào cũng lo đầy đủ cho các con ăn học. Sau 75 một tay má tôi lo đi thăm nuôi cho các em mình cũng như lo cho anh chị em tôi đi nước ngoài để có được một cuộc sống khá tốt như ngày nầy.
Lần sau cùng tôi về thăm má năm 2014, má tôi lúc đó đã thấy yếu nhiều nhưng vẫn tự mình đi không muốn phiền ai. Má bắt đầu ít nói chuyện nhưng nếu thích ai thì cũng nói. Nhất là những chuyện xưa má vẫn còn nhớ nhiều. Lúc đó tôi đưa má đi Hòn Rơm, đi ra biển ở Đồi Dương, má tôi rất vui, ngồi đó chỉ nhìn con không nói những tình cảm mẹ con chắc là tràn đầy. Má nằm trên võng tôi hay hỏi má chuyện nầy chuyện kia, mục đích chỉ để má tôi nói và tôi nghe. Một điều lý thú là những chuyện xưa má tôi nhớ nhiều lắm, nhưng gần thì có chuyện lại quên. Có lẽ ngày xưa memory của mình còn fresh nên chuyện gì cũng nhớ. Sau nầy bộ nhớ chắc đầy rồi nên không nhớ nữa. Để má tôi nói tôi hỏi những bài hát ca dao ngày xưa ru con má tôi đọc rào rào, tôi có ghi lại xin viết ra đây gởi tặng nhân ngày mother day:

Mẹ già như chuối ba hương,
Như cơm nếp mật, như đường mía lau.
Đường mía lau càng lâu càng ngát,
Cơm nếp mật ngào ngạt hương say.

Ví dầu cầu ván đỏng đinh
Cầu tre lắc lẻo, gập ghềnh khó đi
Khó đi mẹ dắt con đi
Con đi trường học, mẹ đi trường đời

Mẹ già như chuối chín cây,
Gió lay mẹ rụng, con phải mồ côi.

Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ
Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ, ngọn lu
Anh về học lấy chữ nhu
Chín trăng em cũng đợi, mười thu em cũng chờ
Chờ chờ đợi đợi làm chi
Trai nam nhi có vợ, gái nữ nhi có chồng

Tiếng đồn con gái Phú Yên
Đồng Nai đi cưới một thiên cá mòi
Không tin mở quả ra coi
Rau răm ở dưới, cá mòi ở trên.

Gió đưa cây Cải về trời,
Rau Răm ở lại chịu lời đắng cay

Gió đưa bụi chuối sau hè
Anh mê vợ bé bỏ bè con thơ
Con thơ tay ẵm, tay bồng
Tay dắt mẹ chồng, đầu đội thúng bông

Kết thúc bài viết xin gởi tặng một số bài thu thập được để nói về lòng bao la của người mẹ và mong tất cả mọi người nhất là các bà mẹ có được một ngày mother day thật an lành và vui vẻ bên người thân.

Bồng bồng con nín con ơi
Dưới sông cá lội, trên trời chim bay.
Ước gì mẹ có mười tay
Tay kia bắt cá, tay này bắn chim.
Một tay tuốt chỉ luồn kim
Một tay làm ruộng, một tay hái rau.
Một tay ôm ấp con đau
Một tay vo gạo, một cầu cúng ma.
Một tay khung cửi, guồng xa
Một tay lo bếp, lo nhà nắng mưa.
Một tay đi củi, muối dưa
Còn tay van lạy, bẩm thưa, đỡ đòn.
Bướm vàng đậu đọt mù u
Lấy chồng càng sớm tiếng ru càng buồn.
Đắng cay cũng thể ruột rào

Đi đâu mà bỏ mẹ già
Gối nghiêng ai sửa,chén trà ai dâng ?
Đố ai đếm được lá rừng
Đố ai đếm được mấy tầng trời cao
Đố ai đếm được vì sao
Đố ai đếm được công lao mẹ già.
Đói lòng ăn hột chà là
Để cơm cho mẹ mẹ già yếu răng.
Đói lòng ăn trái ổi non
Nhịn cơm nuôi mẹ cho tròn nghĩa xưa
Đi khắp thế gian, không ai tốt bằng mẹ
Gánh nặng cuộc đời, không ai khổ bằng cha.
Nước biển mênh mông không đong đầy tình mẹ
Mây trời lồng lộng không phủ kín lòng cha
Tần tảo sớm hôm mẹ nuôi con khôn lớn
Mang cả tấm thân gầy cha che chở đời con
Ai còn mẹ xin đừng làm mẹ khóc
Đừng để buồn lên mắt mẹ nghe con.

Thuý Sương